18/08/2025
Việc xét xử đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam có một số bất cập, đặc biệt là trong việc xác định vai trò, mức độ tham gia và hình phạt áp dụng cho từng đồng phạm. Các bất cập này gây khó khăn cho việc đảm bảo tính công bằng và chính xác trong xét xử, cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.Trong bài viết này, Công ty Luật TNHH TMV An Trần Gia sẽ phân tích và đưa ra một số quan điểm, kiến nghị về vấn đề đồng phạm nhằm làm rõ hơn một số bất cập về thực tiễn xử lý đồng phạm hiện nay.
I. Khái niệm
Theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Trong đó, người đồng phạm bao gồm:
- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
- Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
- Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Như vậy, trong đồng phạm, tội phạm được thực hiện do sự hợp tác, nỗ lực và đồng nhất với nhau về ý chí của những người tham gia thực hiện tội phạm. Vì vậy mà BLHS đã quy định những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm.
Những người đồng phạm cùng thực hiện một hành vi phạm tội nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội là khác nhau. Tính chất tham gia vào tội phạm của từng người đồng phạm được xác định bởi vai trò mà người đó đảm nhận. Nếu một người tham gia tội phạm với vai trò chủ mưu, xúi dục hay thực hành đắc lực thì tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với những đồng phạm khác và hình phạt mà những người đó phải nhận cũng cao hơn.
II. Một số bất cập trong thực tiễn xử lý đồng phạm
Thứ nhất, sự phân hóa TNHS giữa người xúi dục, giúp sức và người thực hành trong vụ án đồng phạm còn chưa rõ ràng.
Điều 58 BLHS 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm như sau:
“Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó".
Trong một vụ án có đồng phạm thì những người tham gia vào hành vi phạm tội tuy cùng phạm một tội nhưng là tham gia vào tội phạm đó với tính chất và mức độ khác nhau, do đó mà mức độ nguy hiểm trong hành vi của mỗi người là khác nhau. Tại điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS 2015 quy định: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” nghĩa là người tổ chức được xác định là người nguy hiểm nên sẽ bị xử lý nghiêm khắc nhất. Tại quy định này đã có sự phân hóa về trách nhiệm hình sự giữa những người đồng phạm tuy nhiên còn rất chung chung và chưa rõ ràng khi chỉ mới nói tới một loại đồng phạm là người cầm đầu, còn những đồng phạm khác thì không được quy định. Trong thực tiễn xét xử thì người tổ chức sẽ luôn bị áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn những đồng phạm khác. Tuy nhiên thì trong BLHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa có quy định nào trực tiếp quy định cụ thể sự phân hóa TNHS giữa người xúi giục, giúp sức và người thực hành mà chỉ có quy định về người tổ chức.
Mặc dù việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là còn phải dựa vào nhiều tình tiết, chứng cứ khác của vụ án. Tuy nhiên việc phân hóa TNHS đối với những người đồng phạm có vai trò khác nhau trong vụ án sẽ giúp thể hiện được rõ hơn tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của người đó nhằm có những hình phạt phù hợp nhất, có tính chất giáo dục, răn đe mà lại thể hiện được sự khoan hồng của nhà nước.
Thứ hai, định tội danh trong trường hợp người thực hành có hành vi vượt quá còn chưa thống nhất, bất cập trong thực tiễn
Theo khoản 4 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”. Mỗi người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác. Trong đó, hành vi vượt quá của người đồng phạm được hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định hành vi vượt quá của người đồng phạm còn nhiều bất cập, thiếu sót.
Ví dụ thực tiễn: Trên quãng đường đi chơi, nhóm đối tượng điều khiển xe máy điện gồm Đặng Văn Đ trở Trần Văn T, Nguyễn Duy B trở Đỗ Trung H, Đặng Phan Khương D trở Đỗ Quốc P, Vũ Văn N trở Đặng Văn K, riêng Mạc Tuấn C điều khiển xe moto trở Nguyễn Đăng T cùng nhau di chuyển trên đường tỉnh lộ thì bị nhóm đối tượng gồm Nguyễn Đức T trở Bùi Thế T và Bùi Minh H, Mạc Đức H trở Đinh Văn H và Doãn Văn T điều khiển moto di chuyển theo hướng ngược chiều có hành vi trêu trọc, ném đá nhằm để nhóm của Mạc Tuấn C đuổi theo. Do bị trêu tức nên Mạc Tuấn C và những người bạn của mình cùng nhau hô hào đuổi theo để đánh dằn mặt. Mạc Tuấn C điều khiển moto nên áp sát được xe của Mạc Đức H và dùng hung khí dọa đánh khiến Mạc Đức H trở Đinh Văn H và Doãn Văn T mất lái đâm vào hòn non bộ ven đường.Thấy vậy, Mạc Tuấn C đã bỏ đi, nhóm bạn của C đến sau thấy các đối tượng bị tai nạn cũng quay xe bỏ đi. Hậu quả, Mạc Đức H bị tổn thương cơ thể là 66%, Doãn Văn T bị tổn thương cơ thể là 22%. Với hành vi phạm tội như trên, các cơ quan tiến hành tố tụng đều xác định Mạc Đức H, Đặng Văn Đ, Trần Văn T, Nguyễn Duy B, Đỗ Trung H, Đặng Phan Khương D, Đỗ Quốc P, Vũ Văn N, Đặng Văn K, Nguyễn Đăng T đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích”.
Trong vụ án này chúng tôi cho rằng, Mạc Tuấn C và Nguyễn Đăng T bị xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” là hoàn toàn đúng do hai đối tượng này đã trực tiếp áp sát và dùng hung khí đe dọa khiến xe của Mạc Đức H mất lái đâm vào hòn non bộ và bị tổn thương cơ thể. Còn đối với những người còn lại trong nhóm của C không phạm tội “Cố ý gây thương tích” mà chỉ phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” vì xác định hành vi của Mạc Tuấn C và Nguyễn Đăng T là hành vi vượt quá nên những người còn lại không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá do C và T gây ra. Mặc dù đã cùng nhau hô đuổi đánh nhóm của Mạc Đức H nhưng múc đích chung cúa cả nhóm chỉ nhằm đuổi đánh do nhóm của Mạc Đức H đã trêu nhóm này trước, không hề có ý định gây thương tích cho nhóm của H. Đồng thời ngoài Mạc Tuấn C trở Nguyễn Đăng T đi moto thì những người còn lại đều đi xe đạp điện, tốc độ không cao nên không thể đuổi kịp, gây áp lực cho nhóm của H điều khiển xe moto, và nhóm của H cũng là nhóm chủ động chạy chứ không phải do nhóm C đuổi mới phải chạy. Những người còn lại cũng không biết C và T dùng hung khí dọa đánh khiến xe của H mất lái, khi đến nơi thì thấy hiện trường tai nạn đã xảy ra nên bỏ đi. Mặt khác, những người đồng phạm này cũng không trực tiếp gây ra thương tích cho nhóm của H. Do đó, hành vi vượt quá của Mạc Tuấn C và Nguyễn Đăng T đã cấu thành tội phạm khác (tội cố ý gây thương tích), những trường hợp còn lại không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá của các Mạc Tuấn C và Nguyễn Đăng T mới đúng. Nhưng trên thực tế và lý luận còn rất nhiều bất cập.
Thứ ba, việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và trường hợp phạm tội chưa đạt còn chưa thống nhất.
Điều 57 BLHS 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Quy định này được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội mà không có quy định riêng đối với trường hợp đồng phạm.
Như vậy, vấn đề đặt ra là trong những vụ án có đồng phạm mà giữa những người đồng phạm có sự phân công về vai trò, có những người giữ vai trò tổ chức hay xúi giục, một số người khác lại giữ vai trò người thực hành hoặc giúp sức thì nếu trường hợp người có vai trò thực hành không thực hiện được tội phạm đến cùng do nguyên nhân khách quan mà chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt thì việc định tội danh đối với người tổ chức trong trường hợp này trên thực tế còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Có quan điểm cho rằng việc quyết định hình phạt đối với người tổ chức, cầm đầu trong vụ án đồng phạm phải dựa vào việc người thực hành đã thực hiện đến giai đoạn nào thì sẽ chịu TNHS đến đó. Nhưng có quan điểm lại cho rằng, người giữ vai trò tổ chức trong vụ án có đồng phạm sẽ phải chịu TNHS đến giai đoạn tội phạm hoàn thành vì việc người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt nằm ngoài ý chí của người tổ chức. Còn đối với người thực hành hoặc người giúp sức đã thực hiện đến giai đoạn nào thì chịu TNHS đến giai đoạn đó.
Theo như một số quan điểm ở trên, nếu chỉ xét TNHS của người cầm đầu dựa theo hành vi của người thực hiện đến đâu thì xử lý đến đó là đang tuyệt đối hóa vai trò của người thực hành trong vụ án mà xem nhẹ vai trò của người cầm đầu bởi lẽ người cầm đầu là người đã đưa ra kế hoạch bao gồm kết quả hoàn chỉnh, nhưng do một số hoàn cảnh khách quan mà người thực hành không thể hoàn thành tội phạm. Còn nếu người cầm đầu phải chịu TNHS về toàn bộ tội phạm kể cả khi người thực hành chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt thì cũng quá nặng do đang tuyệt đối hóa vai trò của người cầm đầu trong khi hành vi phạm tội chỉ mới dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, như vậy việc áp dụng pháp luật hình sự sẽ không còn mang tính giáo dục mà chỉ còn là trừng phạt người phạm tội. Do đó người có vai trò tổ chức nên phải chịu TNHS ở mức nghiêm khắc nhất so với những đồng phạm khác trong vụ án, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn phải dựa vào hành vi thực hiện tội phạm của người thực hành đã thực hiện đến giai đoạn nào và người giúp sức chịu TNHS nhẹ hơn so với người thực hành.
Chính việc nhận thức khác nhau về việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm trong vụ án có đồng phạm đã dẫn tới việc quyết định hình phạt trong trường hợp này chưa thống nhất.
III. Kiến nghị, giải pháp
Thứ nhất, nên có văn bản hướng dẫn về “hành vi vượt quá”
Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa đưa ra khái niệm và cách thức xác định “Hành vi vượt quá” của người thực hành. Điều này gây khó khăn cho việc xác định hành vi của người thực hành đã thực hiện trong vụ án đồng phạm có phải là hành vi vượt quá hay không gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, cần có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán quy định về “hành vi vượt quá” của người thực hành có thể bao gồm khái niệm hành vi vượt quá là việc người thực hiện hành vi phạm tội tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà người đồng phạm khác không biết, không mong muốn.
Thứ hai, chưa có quy định cụ thể về “người đồng phạm có vai trò không đáng kể”
Theo khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” nhưng chưa có quy định cụ thể về “người đồng phạm có vai trò không đáng kể” dẫn tới khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Dẫn đến việc nhiều trường hợp đồng phạm tuy có vai trò không đáng kể nhưng vẫn bị xử lý với mức hình phạt tương đương với những người đồng phạm có vai trò thực hành, không đảm bảo tính công bằng, phân minh trong xét xử. Vì vậy Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết hoặc văn bản hướng dẫn theo hướng người có vai trò hạn chế nhất có thể được xét xử ở mức án thấp hơn nhiều so với các loại đồng phạm khác.
Thứ ba, Việc phân hóa đồng phạm cần rõ ràng cụ thể, chi tiết hơn
Để có hướng áp dụng hình phạt đối với vụ án có đồng phạm một cách thống nhất thì Hội đồng thẩm phán nên có văn bản hướng dẫn xử lý đồng phạm theo hướng Người tổ chức, người xúi dục sẽ chịu trách nhiệm hình sự cao nhất và nghiêm khắc hơn những đồng phạm khác trong vụ án. Người thực hành chịu trách nhiệm hình sự đúng với hành vi phạm tội, giai đoạn phạm tội mà người thực hành đã thực hiện. Người giúp sức hoặc người có vai trò không đáng kể trong vụ án chịu trách nhiệm hình sự nhẹ hơn so với người thực hành.
Trên đây là một số những quan điểm, ý kiến của Công ty Luật An Trần Gia về những bất cập xử lý đồng phạm hiện nay nhằm giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề đồng phạm cũng như mong muốn đóng góp ý kiến thêm cho ngành Luật nói chung cũng như việc xét xử nói riêng ngày một phát triển, công bằng và phân minh.